Đầu tư trực tiếp nước ngoài và cạnh tranh nhượng bộ thuế của các nước ASEAN
Khi nhiều công ty muốn chuyển sản xuất sang Trung Quốc, Covid-19 đã vô tình thúc đẩy nền kinh tế chạy đua tăng tốc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng không xuất hiện trước đại dịch, từ lâu ở Đông Nam Á đã có sự cạnh tranh về ưu đãi thuế để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Năm 2001, Việt Nam đề xuất miễn thuế doanh nghiệp 10 năm để thu hút đầu tư từ Canon. Nhưng sau đó Philippines đã cạnh tranh với Việt Nam và được miễn thuế doanh nghiệp từ 8 đến 12 năm. Năm 2014, Indonesia áp dụng miễn thuế cho Samsung trong 10 năm, trong khi Việt Nam miễn thuế tới 15 năm.
Báo cáo kết hợp của Oxfam, VEPR và Prakasa vừa được công bố trong 10 năm qua, đến năm 2020, mức thuế doanh nghiệp trung bình của các nước ASEAN đã tăng từ 25% lên 21,7%. Một số quốc gia thậm chí còn cho phép các công ty được miễn FDI tới 20 năm và sau đó việc giảm thuế có thể tiếp tục.
Ở một số nước (như Campuchia), ưu đãi thuế chiếm tới 6% GDP. Tại Việt Nam, tỷ trọng thuế doanh nghiệp được ưu đãi đã tăng đều đặn từ 0,75% năm 2014 lên 1,04% GDP năm 2016, và các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài là đối tượng được hưởng lợi chính. – Sau khi được ưu đãi thuế thu nhập, các khoản thanh toán hiệu quả của các công ty ASEAN đạt trung bình 12,28%, gần một nửa so với mức không ưu đãi. Nó cũng nhỏ hơn nhiều so với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Ở Đông Nam Á, Singapore và Indonesia cung cấp các ưu đãi thuế lớn nhất. Vì vậy, cùng với các chính sách ưu đãi khác, Singapore đã trở thành thiên đường thuế, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài “ảo” từ các công ty đa quốc gia đầu tư vào các thị trường khác.
Thuế suất Thuế doanh nghiệp thực tế được nộp trung bình ở 18 quốc gia ASEAN có hoặc không có ưu đãi thuế. Nguồn: báo cáo của Oxfam, VEPR và Prakasa.
Ngoài ra, các nước ASEAN cũng sử dụng các ưu đãi ngoài thuế chủ yếu thông qua các ưu đãi về đất đai để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Malaysia dẫn đầu khu vực về thời gian đáo hạn ban đầu, với thời hạn thuê chưa hết hạn là 99 năm. Thái Lan và Indonesia cũng cung cấp các hợp đồng thuê dài hạn 99 năm và 95 năm, bao gồm cả gia hạn.

Các chuyên gia VEPR lo lắng về việc các nước ASEAN không quay lưng, không phối hợp, cạnh tranh để giảm ưu đãi về thuế và đất đai, sẽ rơi vào trạng thái cân bằng thấp, ảnh hưởng đến thu ngân sách của mỗi nước. VEPR đánh giá khả năng lạm dụng các ưu đãi, miễn giảm thuế và các ưu đãi khác. Các nước đang phát triển có thể đứng ngoài cuộc cạnh tranh, trong khi các nước láng giềng cố gắng đứng ngoài cuộc cạnh tranh. Thu hút các nhà đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển. Chi phí ưu đãi thuế khó có thể vượt quá lợi ích của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc các công ty cắt giảm thuế quá mức có thể gây ra mối đe dọa đối với doanh thu tài khóa quốc gia. Theo ước tính, thất thu ngân sách do các chính sách ưu đãi về thuế cho các công ty chiếm 6% GDP ở Campuchia và 1% GDP ở Việt Nam và Philippines.
Báo cáo này khuyến nghị ASEAN nên nỗ lực chính trị để tránh cạnh tranh. Đất vô dụng và ưu đãi thuế. Do đó, các quốc gia nên đưa vào danh sách trắng và danh sách đen các ưu đãi thuế. ASEAN nên làm rõ các loại ưu đãi thuế không được sử dụng và đưa chúng vào danh sách đen, đồng thời xây dựng lộ trình loại bỏ các ưu đãi này trong khu vực trong một khung thời gian nhất định. Về giải pháp này, ông Đặng Hoàng Linh, Giám đốc Khoa Kinh tế Quốc tế, Đại học Ngoại giao cho rằng, các nước ASEAN đều có lợi ích riêng nên khó đạt được đồng thuận về một chính sách chung cho toàn khu vực. Thay vào đó, nên hợp tác trong các nhóm quốc gia có môi trường kinh doanh giống nhau, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng, lao động và thị trường.
Ông Đặng Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Quốc tế, có bài phát biểu tại Đại học Ngoại giao Trung Quốc. Ảnh: CMSC.
Ông chia sẻ, các quốc gia có môi trường kinh doanh tốt có quyền lựa chọn dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà không cần sử dụng ưu đãi thuế làm yếu tố thu hút nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong ASEAN vẫn còn một số quốc gia thu hút được nguồn lao động giá rẻ và ưu đãi từ trong nước nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để bù đắp những hạn chế về cơ sở hạ tầng, thể chế và kỹ năng lao động. . Một số công ty nước ngoài chọn chỉ đầu tư vào trong nước để xuất khẩu, vì vậy họ quan tâm đến lao động giá rẻ và ưu đãi thuế.
Còn ông Vũ Tự Thành, Chủ tịch điều hành khu vực của Hội đồng Kinh doanh ASEAN Hoa Kỳ (USABC) cho biết: “Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta thường nghĩ đến đầu tư trực tiếp nước ngoài truyền thống, nghĩa là chuyển vốn ra nước ngoài và Sản xuất đã chuyển sang một quốc gia khác. ”Tuy nhiên, các quốc gia thuộc ESAÔng Thành cho rằng với tốc độ phát triển theo cấp số nhân của nền kinh tế số trong khu vực, AN cần chú ý đến các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mới.
Thành đại diện cho USABC thay mặt tổ chức, với khối lượng kinh doanh trên 160 tập. : “Ưu đãi thuế không phải là ưu tiên hàng đầu khi đầu tư, mà là quy mô thị trường, tiềm năng tăng trưởng của GDP bình quân đầu người và các nguồn lực khác (như lao động, chi phí nhân công).”
Công nhân tại Daikin ở Hình An vào tháng 12 năm 2019 Một nhà máy ở TP. Ảnh: Viễn thông.
Khi nói đến quyết định đầu tư của nhiều công ty Mỹ vào ASEAN, họ coi ASEAN là một khu vực thị trường đơn lẻ tích hợp với dân số 600 triệu người và đang tăng lên. Ông nói: “Chúng tôi xem xét quy mô đầu tư, không phải yếu tố cá nhân.”
Khi đưa ra quyết định đầu tư, công ty chủ yếu tập trung vào quy mô thị trường và chính trị. Thị trường nội bộ và phát triển kinh tế. Ông cho rằng, yếu tố quan trọng thứ hai là lực lượng lao động sẵn sàng chấp nhận các dòng đầu tư kỹ thuật số mới. Các quốc gia phải có sự cạnh tranh tối thiểu với Hoa Kỳ. Thuế. Thay vào đó, các quốc gia phải xây dựng chính sách phát triển thị trường và nguồn nhân lực có kỹ năng cao.
Leave a Comment