“Tăng trưởng tín dụng ba tháng cuối năm không quá 3%”
-Sau quý 3 năm nay, ông có thể đánh giá tình hình hiện tại của các công ty Việt Nam và giai đoạn tương lai?
– Mặc dù các chỉ số kinh tế vĩ mô đã có dấu hiệu phục hồi, nhưng tôi nghĩ bước nhỏ này cũng giống như bệnh nhân yếu mới bắt đầu hồi phục, nếu không bệnh này sẽ xuất hiện trở lại, thậm chí còn nặng hơn. Xuất khẩu trong tháng sáu cao, nhưng xuất khẩu đã giảm dần kể từ tháng bảy và tiếp tục giảm trong tháng tám. Đặc biệt, ở mức tăng trưởng xuất khẩu 17% -18%, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 38%, trong khi cả nước hầu như không tăng trưởng về tốc độ, thậm chí còn thấp hơn năm trước. — Vài tháng sau khi tổng mức bán 9 mặt hàng đầu tiên loại trừ yếu tố giá, nhóm hàng bán lẻ tăng 6,9%, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước, thị trường đang có dấu hiệu phục hồi và hàng tồn kho giảm nhẹ. Nhưng điều này không đủ để ngăn chặn việc giải thể và đóng cửa của các DNVVN.
– Theo ông, chính phủ thực hiện kế hoạch hỗ trợ thị trường mới nhất dựa trên “tác động đến doanh nghiệp là gì?” đến nay?
– Dù khó khăn cho công ty trong năm nay, chính phủ không thể sử dụng chương trình trợ cấp lãi suất như trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009, mà chỉ có thể sử dụng chương trình hỗ trợ thị trường. Về cục thuế, việc xây dựng chính sách miễn giảm thuế, gia hạn nộp thuế tài sản cho các công ty kinh doanh bất động sản, thuế doanh nghiệp.
Có thể xem đây là một sáng kiến của chính phủ. Hỗ trợ kinh doanh. Khi các công ty phải vay với lãi suất cao, hãy cung cấp cho các công ty “khoản vay không lãi suất”. Tuy nhiên, đúng là nó chỉ hiệu quả với những công ty làm ăn có lãi, nó sẽ là người trực tiếp hưởng lợi, còn phần còn lại của công ty không có ý nghĩa gì. Thị trường (dấu hiệu ấm lên). Ngoài ra, quyết định giảm lãi suất xuống 15% gần đây cũng là một phần trong hoạt động hỗ trợ kinh doanh của ngành ngân hàng. Mặc dù không rõ có bao nhiêu công ty đạt được mức cho vay này, nhưng đây được xem là một trong những giải pháp thích hợp để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát, nhưng nó không tạo ra sự linh hoạt rất lớn cho các công ty. -Để tăng cường tính linh hoạt trong kinh doanh và cải thiện điều kiện kinh tế, ông đề xuất những giải pháp nào?
– Chính phủ dự kiến chi ngân sách kế hoạch bao gồm cả bội chi ngân sách đầu tư. Quốc hội đã thông qua việc phát hành trái phiếu, và chi tiêu cho 6 tháng cuối năm là 21 nghìn tỷ đồng. Việc chi tiêu như vậy sẽ kích thích sức mua của thị trường và giải quyết tình trạng bế tắc trong một số ngành như xi măng và thép.
Do sức mua thấp nên bài toán hàng tồn kho hiện nay khó giải quyết. Xuất khẩu cũng kém. Từ tình hình thực tế, xuất khẩu năm nay tuy có tăng nhưng chủ yếu do khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng, so với năm 2011 tốc độ thị trường trong nước giảm mạnh nên bài toán tồn kho chưa thể giải quyết được. Trước tình hình trên, tôi nghĩ chính phủ nên xem xét cho phép các công ty có hàng tồn kho ở một số lĩnh vực quan trọng được giảm thuế VAT để họ giảm giá thành sản phẩm và cho phép họ hạ giá so với quy định của pháp luật. Luật cạnh tranh là 50%. Đồng thời, nếu các công ty này khó khăn về vốn lưu động mà có nợ khó đòi thì nên giãn nợ để tiếp tục sản xuất, tránh tình trạng ế hàng.
Ngoài ra, Ngân hàng Quốc gia có thể kích thích sức mua đối với tín dụng tiêu dùng (trong trường hợp tín dụng tăng trưởng chậm).
– Do nền kinh tế khó hấp thụ vốn ngân hàng, ông cho biết tăng trưởng tín dụng 3 tháng cuối năm sẽ như thế nào? Liệu nó có thể đạt được mục tiêu 10% đến 12% trong kế hoạch điều chỉnh mới của cơ quan quản lý?
– Cho đến nay, tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn 2%, nếu đạt được mục tiêu trên thì bình quân mỗi tháng phải tăng 3%. Khi đó, trong vòng ba tháng, lượng tiền cung ứng ra thị trường đạt 1,5 nghìn tỷ đồng. Tôi cho rằng dù nỗ lực đến đâu thì mục tiêu tăng trưởng tín dụng 10-12% trong năm nay cũng sẽ không đạt được.
Vì trong bối cảnh hiện nay, khi thanh khoản ngân hàng tăng, huy động dân chúng tăng hơn 10% trong vòng 9 tháng, nhưng do nợ xấu đang đọng lại nên nền kinh tế vẫn không hấp thụ được vốn. Vì vậy, vấn đề đặt ra lúc này không phải là hạ lãi suất, mà là giải quyết nhanh nợ xấu. Do đó, hiện tượng ngân hàng dư thừa và công ty không có khả năng vay là có thật.
Vì vậy, một số ngành BOT kinh doanh giao thông, … gặp trường hợp nợ khó đòi thì khoanh nợ để tiếp tục hoạt động. Tiếp tục triển khai. Nếu không, sẽ khó tăng tín dụng, khó cho các công tyNợ khó đòi, nợ khó đòi tiếp tục gia tăng. Theo cách này, nền kinh tế tiếp tục rơi vào vòng luẩn quẩn. Và tôi nghĩ rằng trong ba tháng cuối năm, nếu bạn dốc toàn lực thì mỗi tháng tín dụng của bạn chỉ tăng 1%.
Leave a Comment