Hai người Mỹ đoạt giải Nobel Kinh tế 2012
18h ngày 15/10 (giờ Hà Nội), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã công bố giải Nobel Kinh tế năm nay cho Alvivin E. Roth của Đại học Harvard (Mỹ) và Lloyd S. Shapley của Đại học California (Mỹ). — Nghiên cứu đoạt giải thưởng của bạn liên quan đến “Lý thuyết phân phối ổn định và Thực tiễn tạo thị trường”. Từ đó, đề xuất phương thức kết nối các thành phần kinh tế khác nhau như học sinh đi học hay người hiến tạng với bệnh nhân. Shapley (phải) và Alvivin E. Roth.
Alvivin E. Ron sinh năm 1951, hiện giảng dạy kinh tế và quản lý kinh doanh tại Đại học Harvard (Mỹ). Ông được biết đến với những đóng góp cho lý thuyết trò chơi, sáng tạo thị trường và kinh tế học thực nghiệm.
Lloyd S. Shapley sinh năm 1923, hiện đang giảng dạy toán và kinh tế tại Đại học California (Mỹ). Nhiều nhà kinh tế coi nó là biểu tượng của “lý thuyết trò chơi”.
Lloyd Shapley sử dụng “lý thuyết trò chơi hợp tác” để nghiên cứu và so sánh các phương pháp lắp ráp khác nhau. Chìa khóa ở đây là đảm bảo sự khớp nối ổn định giữa hai yếu tố tham gia. Do đó, Sharpley và các đồng nghiệp đã đề xuất một phương pháp đặc biệt gọi là thuật toán Gale-Shapley. Cách tiếp cận này cũng hạn chế khả năng kiểm soát quá trình lắp ráp của các thành phần. Do đó, anh ta có thể chứng minh cách một phương pháp thiết kế cụ thể có thể mang lại lợi ích nhất quán cho một hoặc hai khía cạnh của thị trường.
Alvin Roth thừa nhận rằng nghiên cứu lý thuyết của Sharpley có thể tiết lộ hành vi thị trường thực tế. Thông qua một loạt các nghiên cứu thực nghiệm, Ross và các đồng nghiệp của ông đã chỉ ra rằng sự ổn định là chìa khóa để hiểu được sự thành công của bất kỳ thể chế thị trường nào. Sau đó, ông đã chứng minh kết luận này thông qua một số lượng lớn các thí nghiệm có hệ thống. Rose cũng giúp khôi phục các phương pháp ghép nối hiện có giữa bác sĩ và bệnh viện, sinh viên và trường học, thậm chí cả người hiến tạng và bệnh nhân. Những cải cách này dựa trên thuật toán Gale-Shapley, với một số điều chỉnh đối với hoàn cảnh cá nhân và các ràng buộc đạo đức.
Cũng như những người đoạt giải Nobel khác, hai nhà khoa học sẽ nhận được giải thưởng trị giá 8 triệu kronor Thụy Điển (tương đương 1,2 triệu đô la Mỹ).
Năm 2011, giải Nobel Kinh tế được trao cho hai nhà khoa học người Mỹ, Thomas J. Sargent, một nhà kinh tế học về kinh tế tiền tệ và kinh tế vĩ mô, và Christopher Sims của Đại học Princeton. Nghiên cứu của họ tập trung vào mối quan hệ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng đối với nền kinh tế.
Các nhà khoa học đoạt giải Nobel Kinh tế từ năm 1992 đến 2011:
– Năm
Người chiến thắng
Work-Country-2011-Thomas J. Sargent Và Christopher Sims-mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của nó đối với nền kinh tế. -United States-2010
Peter A. Diamond, Dale T. Mortensen và Christopher A. và người nộp đơn.-Vương quốc Anh và Hoa Kỳ-2009-Elinor Ostrom và Oliver E. Williamson-Cách thức hoạt động của nền kinh tế-Hoa Kỳ-2008-Paul Krugman-Tác động của quy mô kinh tế đối với mô hình kinh doanh và địa lý. Điểm nổi bật của các hoạt động kinh tế-Hoa Kỳ-2007-Leonid Heviz, Eric Muskin và Roger Myerson-Lý thuyết tổng quan về cơ chế-Hoa Kỳ-2006
Edmund · Phelps (Edmund S. Phelps) – mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp-Hoa Kỳ-2005-Robert J. Auman và Thomas Schelling về “Lý thuyết trò chơi” Phân tích-Hoa Kỳ-2004-Finn E. Kydland và Edward C. Sự hợp nhất trước thời hạn về chính sách kinh tế và động cơ chu kỳ kinh doanh-Na Uy và Hoa Kỳ-2003-Robert F. Engle III và Clive WJ Granger — -Phân tích và hợp nhất dữ liệu kinh tế chuỗi thời gianARCH-Vương quốc Anh và Hoa Kỳ-2002-Daniel Kahneman (Kahneman) và Vernon L. Smith (Vernon L. Smith) -việc sử dụng kinh tế học tư duy Và Phân tích Kinh tế Thực nghiệm-Hoa Kỳ-2001-George A. Akerlov, Michael Spencer và Joseph Stiglitz-Phân tích Thị trường về Sự Bất cân xứng Thông tin-Hoa Kỳ
2000
James J. Heckman và Daniel L. McFadden
Lý thuyết và Phương pháp Phân tích Lựa chọn Rời rạc
Hoa Kỳ — 1999
Robert A. Mundell — -Các chính sách tài chính và tiền tệ dựa trên các cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau
Canada
1998
Amartya Sen
Cơ cấu kinh tế đói và nghèo
Ấn Độ
– -1997
Robert C. Merton và Myron S Scholes-Phương pháp định giá mới cho các phái sinh tài chính-Hoa Kỳ-1996-James A. Mirrlees và William Vickrey-Các lý thuyết về động lực kinh tế dựa trên thông tin bất cân xứng-Vương quốc Anh và Hoa Kỳ-1995-Robert Luca Jr. (Robert E. Lucas Jr.) – Phát triển và áp dụng các giả định ước tính hợp lý-Hoa Kỳ-1994-John C. Hassani, John Nash và Reinhard Selten- -Các lý thuyết về phân tích cân bằng trò chơi bất hợp tác-Hoa Kỳ và Đức-1993-Robert W. Fogel và Douglass C. Các lý thuyết kinh tế và phương pháp định lượng có thể áp dụng ở phía Bắc để giải thích những thay đổi về kinh tế và tổ chức- – Hoa Kỳ
1992
Gary S. Becker
Ứng dụng của kinh tế vi mô trong phân tích hành vi và tương tác của con người (bao gồm cả hành vi phi thị trường)
Hoa Kỳ
thứ năm tới
Leave a Comment